Người Dao là một trong 54 dân tộc anh em sinh sống ở Việt Nam, với nhiều nhóm khác nhau, cư trú tại các bản động vùng sâu, vùng xa thuộc nhiều vùng, miền của đất nước, trong đó có nhóm Dao Tiền và Dao Quần Chẹt. Mặc dù trải qua nhiều biến cố thiên di và cuộc sống du canh du cư, nhưng người Dao ở Phú Thọ cũng như người Dao ở xã Cự Thắng- huyện Thanh Sơn vẫn duy trì những nét văn hóa truyền thống phong phú, mang sắc thái rất riêng, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Một trong những nét văn hóa độc đáo được xem là bản sắc rất riêng của người Dao khu Xuân Thắng, xã Cự Thắng là điệu múa rùa. Đây là những di sản văn hoá phi vật thể rất đa dạng, phong phú và mang đậm bản sắc truyền thống của dân tộc Dao đã tụ cư và sinh sống hàng ngàn đời nay trên quê hương đất Tổ. Là hình thức diễn xướng dân gian tiêu biểu nhất trong các diễn xướng dân gian được trình diễn trong dịp tổ chức Lễ tết nhảy và Lễ lập tĩnh ở các bản của người Dao.

Ông Lý Văn Minh là một trong 8 thành viên của đội mứa Rùa khu Xuân Thắng- xã Cự Thắng- huyện Thanh Sơn cho biết: “Cứ mỗi khi có lễ Tết nhảy của đồng bào dân tộc Dao, ông Minh lại tập hợp những hạt nhân trong đội để luyện tập, phục vụ bà con dân bản” Múa chạy rùa tiếng Dao là “Tam nguyên an ham”. Đây là điệu múa diễn tả các động tác bắt ba ba, vì thế còn gọi là múa bắt ba ba. Chỉ có trong nghi lễ Tết nhảy của người Dao Quần Chẹt mới múa điệu múa chạy rùa; người Dao Tiền không có múa chạy rùa. Thường từ 9 đến 12 người do một ông thấy cúng (Khoi tàn) chọn, mỗi họ lấy một người, nếu không đủ thì lấy mỗi họ từ 2 đến 3 người. Vẫn xếp đội hình lượn vòng tròn nối đuôi nhau như múa chuông, ông thầy đi đầu và khi múa người hơi cúi lom khom.
Trước khi múa, người ta đem tất cả dao, kiếm đã chuẩn bị để trên bàn cúng cắm xuống nền nhà. (Nếu gia đình nào nền nhà làng xi măng thì dao, kiếm được cắm vào từng khúc chuối đặt lên mặt nền nhà) theo hình chữ chi. Người múa tay cầm chuông, lúc đi lúc chạy lom khom theo hình lượm vòng tròn quanh đàn cúng, lúc đi ngược, lúc chạy xuôi, đi theo sự chỉ huy của ông thầy cúng cùng diễn tả động tác tìm bắt ba ba đem về mổ, băm, xào nấu dâng lên Bàn Vương, thầnh thánh và tổ tiên, theo nhịp trống, thanh la của một số người đứng ở vòng ngoài. Trong mỗi đám Tết nhảy phải múa điệu này 15 lượt.
Theo như lời kể của ông Lý Văn Minh thì điệu múa Rùa là một trong những nghi lễ đội ơn thần linh, trời, đất đã cứu giúp người Dao thoát chết và có cơ hội được mưu sinh, lạc nghiệp trên mảnh đất mới. Trước khi múa, người Dao phải chuẩn bị rất kỹ các dụng cụ như: dao, kiếm, chuông, khèn, sập xèng và trống. Trong đó kiếm được coi là thứ vũ khí, khí tài để bảo vệ bản làng, dân tộc, chuông đúc bằng đồng và được dùng trong các lễ, tết của người Dao, khi thả tranh treo thì phải có tiếng chuông, sập xèng là dụng cụ được làm bằng chất liệu đồng hoặc nhôm, sập xèng là dụng cụ bắt buộc phải có trong điệu múa Rùa, khèn cũng là dụng cụ của dân tộc được làm bằng gỗ, tất cả các loại nhạc cụ sẽ tạo nên một bản âm hưởng vang dội. Trong khi múa Rùa các dụng cụ dao, kiếm sẽ được cắm xuống nền nhà( nếu là nền nhà láng xi măng, thì dao, kiếm được cắm vào từng khúc chuối đặt trên nền nhà) theo hình chữ chi. Người múa tay cầm chuông, lúc đi, lúc chạy lom khom theo hình lượm vòng tròn tròn quanh đàn cúng, lúc đi ngược, lúc chạy xuôi, múa theo sự chỉ huy của ông thầy cúng, diễn tả các động tác vây tìm, bắt rùa đem về mổ, băm, xào, nấu dâng lên Bàn vương, thần thánh và tổ tiên, theo nhịp trống, khèn và tiếng hát. Thường thì, trong mỗi đám Tết nhảy, điệu múa Rùa được múa lặp đi, lặp lại từ 12- 15 lượt.
Trong điệu múa rùa, người ta quy định: Trong khi múa, không ai được đi sai theo lối ông thầy đã đi, nếu có lỡ đánh đổ kiếm hoặc đao, hoặc đi sai thì ông thầy sẽ bắt đi lại…Người Dao quan niệm: Nếu người nào đi mà không đi lại thì về nhà sẽ bị ốm, nên ông thầy luôn luôn có trách nhiệm để mắt đến theo dõi mọi người đi sau, bao giờ hết mọi người đi hết lượt mới chạy vòng khác. Do vậy, ông thầy yêu cầu mọi người phải đi đúng như ông thầy đã đi. Người múa vừa đi, vừa chạy nhanh dần, chậm dần, tay vừa lắc chuông xen lẫn tiếng bước chân của người nhảy múa chạy rầm rập, tiếng cười nói rôm rả của người xem, tiếng trống, tiếng chiêng với tiết tấu dồn dập cùng với tiếng hú của đàn ông làm cho nhà đám vui nhộn hẳn lên. Việc chạy nhanh - chậm, ngược - xuôi đều do ông thầy tự quy định và chỉ huy trong quá trình múa.
Và đặc biệt, trong điệu múa rùa không thể thiếu những lời hát do chính ông thầy cúng- người chỉ huy trưởng thể hiện với ý nghĩa cầu mong những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với anh, em họ, hàng, bà con, dân bản, cầu mong mùa màng bội thu, đời sống đủ đầy, no ấm, con cháu thảo hiền, để cho con cháu biết về nguồn gốc của mình, qua đó phát huy sức mạnh đoàn kết để làm ăn phát triển kinh tế “ Mời thần linh, trời đất, tổ tiên chứng giám cho lễ tạ ơn của dồng bào Dân tộc Dao, cầu xin tổ tiên phù hộ, che chở cho mọi thành viên trong gia tộc mạnh khỏe, làm ăn phát đạt, thóc lúa đầy bồ, dân làng, mọi nhà may mắn, bình yên” Trang phục của người Dao trong điệu múa Rùa cũng rất độc đáo và đặc sắc.
Mỗi thành viên trong đội múa Rùa phải tự trang bị cho mình một bộ trang phục truyền thống, in hình họa tiết những con vật như; hổ, sử tử, rắn, rồng, hổ, báo, đây là những con vật tượng trưng cho sức mạnh, với ý nghĩa bảo vệ con người trước sự xâm hại của ma quỷ và các loài thú dữ. Mỗi người một màu sắc khác nhau, người thì áo xanh, đỏ, vàng kết hợp với mũ có hình tượng trưng của 3 anh em đấng thánh vương, tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong những ngày lễ hội, hay Tết nhảy của dân tộc mình. Kết thúc điệu múa, các thành viên trong đội cùng lượm theo vòng tròn, nhảy và dương cao những dụng cụ kiếm, dao để cùng biểu dương sức mạnh đoàn kết, sức mạnh đó có thể chiến thắng mọi kẻ thù và bảo vệ được dân làng.
Múa Rùa của người Dao không chỉ đơn thuần mang yếu tố nghệ thuật, tâm linh mà còn mang tính giáo dục, sự kế thừa văn hóa truyền thống, là sự tái diễn lại hoạt động trong lao động, sản xuất, trong cuộc sống đời thường. Đây sẽ là những giá trị văn hóa tinh thần vô cùng quý giá trong kho tàng văn hóa nghệ thuật của người Dao, góp phần làm giàu thêm nền văn hóa các dân tộc Việt cần được bảo tồn và gìn giữ./.
Hương Giang- Phòng VHTT