Sơ lược về lịch sử hình thành
Ngày 03/5/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Nghị định số 359 ngày 09/9/1946, chiếu theo Sắc lệnh số 58 ngày 03/5/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập “Nha Dân tộc thiểu số”, với chức năng, nhiệm vụ “ xem xét các vấn đề chính trị và hành chính thuộc các dân tộc thiểu số trong nước và thắt chặt tình thân thiện giữa các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam”, đánh dấu sự ra đời của cơ quan công tác dân tộc. Trải qua 70 năm hình thành và phát triển, cơ quan công tác dân tộc với những mô hình tổ chức và tên gọi khác nhau, từ Nha Dân tộc thiểu số đến Ủy ban Dân tộc ngày nay ngày càng được củng cố, kiện toàn về tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ, tham mưu cho Đảng, Nhà nước giải quyết tốt vấn đề dân tộc trên phạm vi cả nước.
Năm 1979, Ban Bí Thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 38/QĐ-TW, ngày 14/5/1979 quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ban Dân tộc Trung ương và cơ quan công tác dân tộc các tỉnh “Ban Dân tộc là cơ quan tham mưu, giúp việc của Trung ương (hoặc cấp ủy địa phương) về vấn đề dân tộc ít người”.
Ở tỉnh Vĩnh Phú, Ban Dân tộc thuộc Tỉnh ủy, có chức năng, nhiệm vụ giúp cấp ủy theo dõi, kiểm tra, tổng hợp tình hình thực hiện đường lối, chính sách đối với Đảng đối với các dân tộc tại địa phương theo yêu cầu của cấp ủy và phối hợp với Ban Dân tộc Trung ương trong việc nghiên cứu và kiểm tra các vấn đề về chính sách của Đảng đối với các dân tộc theo sự chỉ đạo của cấp ủy.
Tháng 8/1988, Tỉnh ủy giải thể Ban Dân tộc đồng thời thành lập Ban Dân vận Tỉnh ủy, cán bộ của Ban Dân tộc chuyển sang Ban Dân vận thành một bộ phận làm công tác dân tộc và tôn giáo. Đến năm 1990, Ban Dân vận giải thể, cán bộ Ban Dân vận chuyển về UBMT Tổ quốc Việt Nam tỉnh Vĩnh Phú. UBMT Tổ quốc tỉnh có một bộ phận làm công tác dân tộc và tôn giáo.
Ngày 27/01/1989, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 22/NQ-TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Đây là văn kiện quan trọng của Đảng, mở đường cho sự đổi mới hoạt động công tác dân tộc. Hội đồng Bộ trưởng đã thể chế hoá Nghị quyết của Đảng và ban hành Quyết định số 72/HĐBT ngày 13/3/1990 về “Một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi”. Để tăng cường chỉ đạo điều hành của Chính phủ đối với công tác dân tộc, tháng 5/1990, Hội đồng Bộ trưởng thành lập Văn phòng miền núi và dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tháng 10/1992, Bộ Chính trị Quyết định hợp nhất hai cơ quan Ban Dân tộc Trung ương và Văn phòng miền núi thành cơ quan Ủy ban Dân tộc và Miền núi.
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, căn cứ vào tình hình dân tộc và công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã giao công tác dân tộc cho Văn phòng UBND tỉnh, từ năm 1994 – 1997 có một chuyên viên Văn phòng UBND tỉnh theo dõi công tác dân tộc và tôn giáo. Đến tháng 7/1998 thành lập phòng Dân tộc và Tôn giáo thuộc Văn phòng UBND tỉnh.
Ngày 19/3/2003, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 39/2003/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Phú Thọ, UBND tỉnh Ban hành Quyết định số 4023/2004/QĐ-UB, ngày 24/12/2004 về việc thành lập Ban Dân tộc và Tôn giáo; là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND tỉnh, có chức năng tham mưu giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước đối với lĩnh vực dân tôc và tôn giáo, thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của UBND tỉnh và quy định của pháp luật.
Thực hiện Nghị định số 53/2004/NĐ-CP ngày 18/2/2004 của Chính phủ về việc kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc thuộc UBND các cấp, huyện Thanh Sơn, Yên Lập, Tân Sơn (2007) được thành lập phòng Dân tộc, các huyện miền núi khác có 1 chuyên viên thuộc Văn phòng UBND theo dõi công tác dân tộc.
Thực hiện Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Thủ tướng Chính Phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Ban Dân tộc và Tôn Giáo tỉnh Phú Thọ được thành lập lại và đổi tên thành Ban Dân tộc tỉnh Phú Thọ ( 4/2008), mô hình Ban Dân tộc được thực hiện cho đến ngày nay; bộ phận làm công tác tôn giáo chuyển về Sở Nội vụ. Cơ cấu tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc thuộc UBND cấp huyện được thực hiện theo Nghị định 14/2008/NĐ-CP, ngày 04 tháng 02 năm 2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân Huyện, Quận, Thị xã, Thành phố thuộc Tỉnh; các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, Tân Sơn có phòng Dân tộc, các huyện miền núi khác có 1 chuyên viên thuộc Văn phòng UBND theo dõi công tác dân tộc.
Cơ cấu tổ chức bộ máy
Giai đoạn 2003 - 2007 Ban Dân tộc và Tôn giáo có 04 phòng: Văn phòng Ban, Phòng Tôn Giáo, Phòng Thanh tra, Phòng Dân tộc.
Giai đoạn 2008 đến nay có 04 phòng: Kế hoạch - Tài chính, Phòng Chính sách, Thanh tra Ban và Văn phòng Ban.
Các đồng chí đã từng giữ các chức vụ Lãnh đạo Ban đã nghỉ hưu và chuyển công tác qua các thời kỳ:
Đ/c Phùng Văn Tiến - Trưởng Ban, hiện nay đã nghỉ hưu;
Đ/c Nguyễn Hữu Trí - Trưởng Ban, hiện nay đã nghỉ hưu;
Đ/c Hà Đức Quảng - Trưởng Ban, hiện nay giữ chức vụ Bí Thư huyện ủy Yên Lập;
Đ/c Bùi Đức Nhẫn - Phó Trưởng Ban, hiện nay giữ chức vụ Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội;
Đ/c Nguyễn Văn Hải - Phó Trưởng ban, hiện nay giữ chức vụ Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ;
Đ/c Dương Thị Thu Vân - Phó Trưởng Ban, hiện nay giữ chức vụ Phó Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy.
Đ/c Nguyễn Thế Anh - Phó Trưởng ban, hiện nay đã nghỉ hưu;
Đ/c Đinh Thị Hợi - Phó Trưởng ban, hiện nay đã nghỉ hưu;
Đ/c Nguyễn Văn Cường Phó Trưởng ban, hiện nay đã nghỉ hưu;
Từ năm 2003 đến nay cơ quan công tác dân tộc của tỉnh được củng cố về tổ chức bộ máy từ tỉnh đến huyện. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ quan công tác dân tộc đã phối hợp với các ngành chức năng tập trung làm tốt công tác tham mưu, quản lý, hướng dẫn, điều hành việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn.
Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước nhất là từ khi có Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 27/12/1989 của Bộ Chính trị, Quyết định số 72-HĐBT ngày 13/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), Phú Thọ đã có những chủ chương, chính sách cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi trên địa bàn tỉnh. Công tác dân tộc của tỉnh Phú Thọ đã đạt được những thành tựu to lớn, tương đối toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền bình đẳng giữa các dân tộc được thực hiện đầy đủ, toàn diện hơn; đoàn kết dân tộc được tăng cường.